Âm nhạc mới Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa là một hiện tượng, một sản phẩm văn hóa dân tộc trong thế kỷ XX, là kết quả của các đợt tiếp biến văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây.
Sau khi thực dân Pháp hoàn thành cuộc xâm lăng ở Việt Nam, Văn minh phương Tây đã được truyền bá và du nhập vào Việt Nam làm nảy sinh những hiện tượng Văn hóa mới trong đó có âm nhạc. Được gọi là nhạc Cải cách; Tân nhạc hay nhạc mới.
Nhạc Cải cách là sản phẩm khi ra đời còn có cơ sở là sự tiếp nối trực tiếp của cái cũ kết hợp với những yếu tố mới để cho phù hợp với sự phát triền của xã hội.
Nhạc mới hay Tân nhạc là một hiện tượng hoàn toàn mới, là kết quả của sự giao thoa văn hóa Đông Tây, là sự tiếp nhận của người Việt Nam đối với âm nhạc phương Tây theo cách của mình. Nó không phải là một dạng thái âm nhạc cũ – cổ truyền mà cải tiến, cải cách để trở thành một hiện tượng mới. Do đó hiện tượng âm nhạc Việt Nam đầu thế kỷ XX được gọi là Âm nhạc mới hay Tân nhạc.
Nhạc mới là một thuật ngữ chỉ dạng thái, được gọi chung cho tất cả các dòng âm nhạc như dòng lãng mạn, dòng yêu nước cách mạng…
Các giai đoạn trong nền âm nhạc mới Việt Nam.
Trong công trình “Âm nhạc mới Việt Nam – tiến trình và thành tựu” Các tác giả phân định thành 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Sự hình thành âm nhạc mới – Khoảng đầu thế kỷ XX đến năm 1945.
Giai đoạn thứ 2: Những bước trưởng thành – Từ tháng 9 năm 1945 đến mùa xuân năm 1975.
Giai đoạn 3: Những chặng đường mới – Từ năm 1975 đến nay.
- Bối cảnh lịch sử
Sau nhiều thế kỷ xâm nhập bằng con đường buôn bán và chuẩn bị những mưu đồ xâm lược Việt Nam, ngày 31 tháng 8 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng ở Đà nẵng, mở màn cho cuộc tiến công xâm lược nước ta. Mặc dù nhân dân ta đã chống trả quyết liệt nhưng chế độ phong kiến của triều đình nhà Nguyễn đã mục ruỗng đến tận gốc rễ trước sau cũng không tránh khỏi được sự diệt vong trước sự tấn công của tư bản phương Tây.
Sau khi cơ bản kết thúc xâm lược bằng vũ trang, Pháp tiến hành cai trị và tạo ra chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam.
Mặc dù bị Pháp đô hộ nhưng nhân dân Việt Nam không chịu khuất phục, hết cuộc khởi nghĩa này đến cuộc khởi nghĩa khác của nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổ ra chống lại thực dân Pháp.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng đã từng bước giành được thắng lợi và cuối cùng tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền về tay nhân dân.
Với hơn nửa thế kỷ bị đô hộ, văn hóa Việt Nam đã có sự ảnh hưởng và tiếp thu văn hóa phương Tây. Cũng như những lần tiếp biến văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trước đây, một lần nữa, nền văn hóa Việt Nam lại có sự tiếp biến văn hóa Phương Tây nói chung và âm nhạc phương Tây nói riêng. Kết quả của sự tiếp biến này là “nhạc mới” Việt nam.
- Sự xâm nhập của âm nhạc phương Tây vào Việt Nam.
Với hơn 40 năm thực hiện “bình định về quân sự”, thực dân Pháp đã nhận ra rằng: chỉ chinh phục bằng đất đai của người Việt Nam thì không đủ mà còn cần phải chinh phục tâm hồn của họ nữa. Vì vậy, song song với công cuộc khai thác, bóc lột Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành cuộc “bình định về tinh thần”.Từ thế kỷ XIX, văn hoá Pháp cùng văn hoá phương Tây đã bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam.
Tới đầu thế kỷ XX, khi Pháp tiến hành chiến dịch “bình định tinh thần” thì văn hoá phương Tây và văn hoá Pháp càng thâm nhập vào Việt Nam một cách mạnh mẽ.
Nằm trong chiến dịch xâm nhập về văn hoá, âm nhạc Tây Âu đủ loại, trước hết là âm nhạc Pháp tràn vào nước ta theo nhiều nguồn, nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu theo bảy con đường là:
Âm nhạc tôn giáo
Âm nhạc nhà binh
Biểu diễn âm nhạc của các gánh hát nước ngoài, các đoàn nghệ thuật tạp kỹ, nhạc trong các phòng trà, tiệm nhảy.
Âm nhạc trong phong trào hướng đạo sinh
Âm nhạc trong phim ảnh, đĩa hát, đài phát thanh
Các trường học Pháp – Việt tổ chức dạy nhạc, các lớp dạy nhạc tư của một số công chức Pháp.
Những bài hát cách mạng Châu Âu được truyền sang.
Âm nhạc Pháp và phương Tây tràn vào chủ yếu ở các đô thị. Những năm đầu thế kỷ, tầng lớp thanh niên đô thị bắt đầu ưa thích âm nhạc Tây Âu và chạy theo tìm học những thứ đàn mới như ghi ta, măngđôlin… Có không ít nhạc sĩ lớp đầu của chúng ta đã tự mày mò học âm nhạc và nhạc cụ phương Tây.Ngay cả một số người rất gắn bó với âm nhạc cổ truyền dân tộc cũng tìm thấy ở âm nhạc phương Tây những lợi thế mà họ dự kiến sử dụng để phục vụ cho việc bảo tồn âm nhạc cổ truyền dân tộc.
- Sự hình thành âm nhạc mới Việt Nam
Cuộc xâm lăng về văn hóa Phương Tâyvào Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷXX đồng thời cũng diễn ra một quá trình “ Việt hóa”âm nhạc Châu Âu. Thời kỳ này âm nhạc phương Tây ồạt vào Việt Nam dẫn tới hình thành phong trào Lời ta điệu Tây, phong trào sáng tác ca khúc mới.
1.1.4.1.Phong trào Lời ta điệu Tây
Nhạc mới Việt Nam được khởi đầu từ phong trào “soạn lời ta theo điệu Tây” và hát “bài ta theo điệu Tây”. Đầu tiên, người ta hát nguyên theo lời Pháp, sau đó dịch ra lời Việt. Rồi một số người đặt lời cho các điệu hát Tây. Việc làm đó trở thành mốt, ai không theo thì được coi là không tân tiến. Phong trào này kéo dài trong một thời kỳ từ khoảng đầu những năm 20 đến đầu những năm 40 của thế kỷ.
Đánh giá về phong trào Lời ta điệu Tây , sách Âm nhạc Việt Nam – tiến trình và thành tựu có viết: “Phong trào lời ta điệu Tây vừa là một trong những biểu hiện của sự xâm nhập âm nhạc châu Âu vào Việt nam, vừa là biểu hiện của xu hướng Việt hóa bước đầu, có tính chất quá độ, để đi tới sự chuyển hóa về chất trong chặng đường tiếp theo – phong trào vận động nhạc cải cách, tiến tới sự ra đời của những ca khúc được sáng tác mới”[1].
Mùa thu năm 1937, nhóm các nhạc sĩ trẻ gồm Văn Chung, Doãn Mẫn… tụ tập tại Khâm Thiên trình bày cho nhau những tác phẩm như Trên thuyền hoa của Văn Chung, Vườn xuân của Lê Yên…Đây là một sự kiện đáng ghi nhớ đánh dấu cho một bước chuyển trong sự ra đời của các sáng tác mới Việt Nam, một bước chuẩn bị cho sự ra đời công khai của nhạc mới.
1.1.4.2.Phong trào sáng tác ca khúc mới
Phong trào sáng tác theo phương pháp Tây Âu dần dần được lan rộng và bước ra công khai. Lúc đó, các bài sáng tác theo phương pháp mới còn được gọi là Âm nhạc cải cách. Sự ra đời của âm nhạc cải cách phải kể đến công lao của nhac sĩ Nguyễn Văn Tuyên. Năm 1938, ông được thống đốc Pháp trợ cấp để đi tuyên truyền cho âm nhạc Pháp. Chuyến đi của ông đã có tác động như một mồi lửa cho phong trào sáng tác nhạc mới Việt Nam bùng lên thành ngọn lửa lớn, đánh dấu mốc mới cho lịch sử âm nhạc Việt Nam. Chủ trương sáng tác của ông dựa trên bút phát Tây Âu để tạo những bài bản mới, thể hiện tính chất dân tộc trên cơ sở bám sát Tiếng Việt. Điều này, phù hợp với tâm tư của các nhạc sĩ trẻ Hà Nội bấy lâu nên đã được hưởng ứng nhiệt tình.Sau buổi diễn thuyết của ông, Hà Nội như bừng lên một không khí âm nhạc mới.
Tờ báo Ngày nay đã đảm nhận đăng các bài sáng tác mới của các nhạc sĩ Việt nam như : Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát, Hoa tàn nhạc Nguyễn Văn Tuyên lời Nguyễn Văn Cổn, Tiếng đàn đêm khuya của Lê Thương, Đám mây hàng của Phạm Đăng Hinh, lời Phạm Văn Xung, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh…
Từ đây, “âm nhạc cải cách” chính thức ra đời và được công nhận. Sáng tác theo phong cách mới mau chóng được lan rộng ra các tỉnh ngoài Bắc rồi vào Nam. Riêng miền Trung, âm nhạc cải cách xuất hiện chậm hơn.
Như vậy, nhạc mới cũng như thơ mới, tiểu thuyết, kịch nói… đã lần lượt ra đời và bắt rễ ở nước ta trong nửa đầu thế kỷ XX.
Sự ra đời của nhạc mới là một trong những sự kiện quan trọng đánh dấu những bước ngoặt, bước phát triển trong lịch sử âm nhạc nước ta. Nó có ý nghĩa đáp ứng nhu cầu tình cảm và thẩm mỹ mới.
[1]Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựu – PGS.TS Tú Ngọc, PGS. TS Nguyễn Thị Nhung, TS Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh, Thái Phiên – Viện âm nhạc, 2000 – Tr 52.
Bình luận